Dưới đây là những dạng đề thi quan trọng nhất phần nghị luận văn học nằm trong đề thi THPT Quốc gia. Khi nắm được các dạng đề thi các bạn có thể xác định được cách làm các dạng đề, để tránh không bị lạc đề, từ đó có thể viết văn được trôi chảy.

Bạn đang xem: Các bài nghị luận văn học thi thpt quốc gia


1. Tổng quan về phần Nghị luận văn học trong đề thi THPT Quốc Gia

a. Khái niệm

Nghị luận văn học được biết đến như một dạng văn bản sử dụng với mục đích bày tỏ sự cảm thụ về các tác phẩm văn học theo suy nghĩ của bản thân, đó là những lý lẽ nhằm đánh giá, phân tích, bàn luận về những vấn đề nằm trong lĩnh vực văn học giúp khám phá được thế giới nội tâm của tác giả, đồng thời cũng tìm ra được những giá trị có thể thuyết phục được người khác nghe dựa vào quan điểm và ý kiến cá nhân. Đây là phần vô cùng quan trọng trong khi ôn thi tốt nghiệp THPT môn Văn.

b. Một số yêu cầu chung cần nắm khi viết một bài văn Nghị luận văn học

- Tìm hiểu thật kỹ về tác giả, hoàn cảnh ra đời, năm tác phẩm đó ra đời.

- Tìm hiểu kỹ về tâm tình của tác giả.

- Các vấn đề cần bàn luận là những vấn đề liên quan đến văn học, có thể là về tác giả, tác phẩm hay những ý kiến nhận định về tác giả, tác phẩm và nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.

- Đối với thể loại thơ thì cần lưu ý về hình thức như cách gieo vần, nhịp điệu, cấu trúc và những nghệ thuật ngôn từ… Đặc biệt lưu ý đến tính thẩm mỹ thể hiện trong tác phẩm.

- Đối với những tác phẩm văn xuôi thì cần lưu ý đến cốt truyện, tình tiết, nhân vật, tình huống truyện, hình tượng điển hình. Cần khai thác tối đa nội dung hiện thực cũng như nội dung tư tưởng trong tác phẩm kèm theo những thông điệp từ tác giả. Các dẫn chứng cần phải mang tính chính xác và có chọn lọc

2. Các dạng đề Văn thường gặp trong phần Nghị luận văn học đề thi THPT Quốc gia

Dạng 1: Nghị luận (có thể là phân tích hoặc cảm nhận) về đoạn thơ, đoạn văn

Mẫu đề: Phân tích 8 câu thơ đầu "Tây Tiến" của tác giả Quang Dũng:

" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

..... mưa xa khơi"

Hướng dẫn làm bài:

Quang Dũng là một trong những nhà thơ chiến sĩ tiêu biểu của thời kì kháng chiến chống Pháp. Ông đặc biệt thành công khi viết về đề tài người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về người lính là bài thơ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo trong suốt bài thơ là cảm hứng về nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ khó phai của đời người lính Tây Tiến được khắc họa thành công ở tám câu đầu của bài thơ:

" Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

.....mưa xa khơi"

Tây Tiến là 1 trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Nhắc đến nhà thơ, không ai không thể không nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. Tây Tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống Pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng Thượng Lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở Tây Bắc nước ta và biên giới Việt Lào. Quang Dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn Tây Tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở Phù Lưu Chanh_ 1 làng ven bờ sông Đáy, nhớ về đơn vị cũ ông đã viết nên bài thơ. Lúc đầu, ông đặt bài thơ là Nhớ Tây Tiến nhưng về sau đổi lại thành Tây Tiến vì nhà thơ cho rằng chỉ với 2 từ Tây Tiến cũng đủ đã gợi lên nỗi nhớ là cảm hứng chủ đạo chứ không cần đến từ "nhớ". Là 1 người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng nhà thơ. 1 thời gắn bó sâu đậm với Tây Tiến, với đồng đội, với núi rừng đã làm cho ông không khỏi bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi"

Câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. Bằng cách sử dụng câu cảm thán mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã gọi tên cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ cồn cào, da diết về núi rừng Tây Bắc. bằng thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. "Sông Mã" không đơn thuần là 1 con sông mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hiện hữu, 1 chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc đời người lính Tây Tiến với bao nỗi vui - buồn, được - mất. "Tây Tiến" không chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn " tri âm tri kỉ" để nhà thơ giãi bày tâm sự.

"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Câu thơ thứ 2 với điệp từ "nhớ" được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa vào tâm trí Quang Dũng. tính từ "chơi vơi" kết hợp với từ "nhớ" đã khắc sâu được tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí nhà thơ đã đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. 2 câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ

"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời"

Quang Dũng đã liệt kê hàng loạt các địa danh như: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông... Đó là địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, những nơi họ đi qua và dừng chân trên bước đường hành quân gian khổ, mệt nhọc. Nói đến Tây Bắc, là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Có những đêm dài hành quân người lính Tây Tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, không nhìn rõ mặt nhau. "Đoàn quân mỏi" nhưng tinh thần không "mỏi". Bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức Hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. Quang Dũng đã rất tài tình khi đưa hình ảnh "sương" vào đây để khắc họa hơn sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Bắc trong những đêm dài lạnh lẽo. Cũng miêu tả về "sương",

Chế Lan Viên cũng đã viết trong "Tiếng hát con tàu":

"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn"

Có lẽ thiên nhiên rất gắn bó với người lính Tây Bắc nên nó đã trở thành1 kí ức khó phai trong lòng nhà thơ. Thiên nhiên tuy có đẹp nhưng cũng rất hiểm trở. Có những lúc người lính Tây Tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. Quang Dũng đã khéo léo sử dụng từ "thăm thẳm" mà không dùng từ "chót vót" bởi nói "chót vót" người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng "thăm thẳm" thì khó có ai có thể hình dung được nó sâu thế nào. Bằng những từ láy gợi hình ảnh rất cao như "khúc khuỷu", "thăm thẳm", "heo hút", nhà thơ đã làm cho người đọc cảm nhận được cái hoang sơ, dữ dội của núi rừng Tây Bắc. Nhà thơ cũng rất trẻ trung, tinh nghịch khi đưa hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ " súng ngửi trời" để cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh được cảnh quang thiên nhiên Tây Bắc thật cheo leo, hiểm trở

"Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"

Điệp từ "ngàn thước" đã mở ra 1 không gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ, giăng mắc. Bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:

"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"

Có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính Tây Tiến. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. Nhà thơ đã thông minh , sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ "mưa xa khơi". Nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. Câu thơ thứ 8 nhiều thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng đầy lãng mạn. 8 câu thơ đầu của bài thơ Tây Tiến là nỗi nhớ về núi rừng Tây Bắc, về đồng đội Tây Tiến nhưng qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng Tây Bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt của người lính Tây Tiến nói riêng và của những người lính nói chung. Bài thơ "Tây Tiến" dưới ngòi bút của lãng mạn, trữ tình của Quang Dũng đã trở thành 1 kiệt tác của mọi thời đại. Cảm hứng chủ đạo xuyên suốt bài thơ đó là cảm hứng về nỗi nhớ. Quang Dũng đã miêu tả nỗi nhớ đó bằng ngòi bút tài tình giàu chất nhạc, chất họa và đậm chất thơ. Bài thơ là 1 khúc nhạc của tâm hồn, của cuộc sống. Bởi thế, Xuân Diện thật chính xác khi cho rằng đọc bài thơ "Tây Tiến" như đang ngậm âm nhạc trong miệng. Bài thơ hay bởi lẽ nó được viết nên từ ngòi bút hào hoa, lãng mạn và của 1 người lính Tây Tiến nên nó có 1 cái rất riêng và đẹp. Mang chất lính nên Quang Dũng mới có thể viết nên những vần thơ hay như thế "Tây Tiến" là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn , tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.

Dạng 2: Nghị luận (có thể là phân tích hoặc cảm nhận) về đoạn trích

Mẫu đề: Trong truyện ngắn mang tên Vợ chồng A Phủ, khi Mị bị A Sử trói vào cột, tác giả Tô Hoài có viết:

“Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

(Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài)

Từ đoạn văn phía trên, anh/chị hãy chỉ rõ hình ảnh của nhân vật Mị và về ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài

Hướng dẫn làm bài

I. Mở bài

Nếu đoạn đời sống trong địa ngục trần gian ở Hồng Ngài là sự giao tranh âm ỉ quyết liệt giữa số phận bi thảm và sức sống tiềm tàng của Mị, thì cảnh Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà trong bóng tối có thể xem như là hình ảnh thu nhỏ cô đúc và thấm thía của cuộc giao tranh đó. Chỉ có điều nó lại diễn ra trong tâm trạng chập chờn nửa mê, nửa tỉnh của cô gái, và Tô Hoài, như đã nhập thân vào nhân vật để viết nền một đoạn văn thật tinh tế, sâu sắc “Trong bóng tối... không bằng con ngựa”.

II. Thân bài

1. Giữa đoạn văn là một câu rất ngắn, chỉ có bốn chữ: Mị vùng bước đi Trên là âm thanh tiếng sáo, dưới là tiếng chân ngựa. “Mị vùng bước đi” như một cái bản lề khép mở hai thế giới, hai tâm trạng: thế giới của ước mơ với tiếng sáo rập rờn trong đầu và thế giới của hiện thực với tiếng chân ngựa đạp vào vách: tâm trạng của một cô Mị đang mê man chập chờn theo tiếng sáo gọi bạn tình và tâm trạng của một cô Mị đã tỉnh đang “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thật cô đúc mà thấm thìa. Kiệm lời mà hàm chứa nhiều ý nghĩa.

Xem thêm: Đề Án Lên Thành Phố Trực Thuộc Trung Ương Của Việt Nam Trong Tương Lai (Dự Kiến)

2. Tiếng sáo: ước mơ - sức sống của Mị

“Mị vùng bước đi”. Câu văn ngỡ như không đúng mà lại rất đúng, lại tinh tế và sâu sắc. Làm sao Mị có thể vùng bước đi khi đã bị trói bằng cả một thúng sợi đay? Nhưng Mị đã vùng bước đi như một kẻ mộng du, như không biết mình đang bị trói. Bởi Mị đang sống với ước mơ, bằng ước mơ chứ không sống với hiện thực, bằng hiện thực. Mị đang sống với tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân ngày trước, đang muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu, hạnh phúc của mình. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Mới biết sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đến nhường nào. Sức sống ấy khiến cô quên đi tất cả hiện thực xung quanh, không thấy, không nghe A Sử nói, không biết cả mình đang bị trói! Chỉ còn biết có tiếng sáo, chỉ còn sống với tiếng sáo, mê man chập chờn trong tiếng sáo. Xây dựng nên cái tâm trạng mê man như một kẻ mộng du đi theo tiếng sáo. Tô Hoài đã nói lên rất rõ và sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng cô lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu tượng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị.

3. Tiếng chân ngựa: hiện thực – số phận của Mị

“Mị vùng bước đi”. Nhưng tay chân đau không cựa được. Tiếng sáo tắt ngay, ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình không bằng con ngựa. Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác. nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị khi nó gợi lên một sự so sánh thật nghiệt ngã, xót xa: thân phận con người mà không bằng thân trâu ngựa! Tiếng chân ngựa đã thành một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị.

4. Ngòi bút miêu tả tinh tế, sâu sắc của Tô Hoài

- Tinh tế trong miêu tả tâm trạng nhân vật ở hai cảnh đối lập nhau: mê man chập chờn theo tiếng sáo như một kẻ mộng du dẫn đến hành động “vùng bước đi”; tỉnh lại và cay đắng xót xa “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” - hai tâm trạng ấy tiếp nối nhau trong sự phát triển biện chứng để hoàn chỉnh chân dung và số phận nhân vật.

- Sâu sắc trong những chi tiết giàu ý nghĩa, đặc biệt là hai biểu trưng “tiếng sáo” và “tiếng chân ngựa” đối lập nhau và đầy ấn tượng.

III. Kết bài

Đoạn văn ngắn mà bật nổi được bức tranh tối - sáng của nhân vật (số phận và sức sống) một cách sinh động, gợi cảm và có chiều sâu, khiến ta càng hiểu thêm nhân vật, bút pháp Tô Hoài và nhất là tấm lòng đồng cảm yêu thương của nhà văn đối với nhân vật của mình. Đó là một trong những đoạn văn hay nhất, in đậm phong cách Tô Hoài trong truyện ngắn này.

Dạng 3: Nghị luận liên quan đến một tình huống truyện

Mẫu đề: Có nhận định cho rằng: “Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người”. Từ quá trình phân tích tình huống truyện trong tác phẩm Vợ nhặt, anh/chị hãy cho ý kiến về nhận định trên.

Hướng dẫn làm bài

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Tuyển sinh số xin gửi tới các thí sinh tuyển tập những bài văn đạt điểm cao để tham khảo, chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới.

Like và Theo dõi Fanpage Tuyển sinh số(https://www.facebook.com/timluanvan.com/)để cập nhật thêm nhiều tin tức tuyển sinh và tài liệu ôn thi học kì, ôn thi THPT quốc gia.

Ngữ Văn là môn thi tự luận duy nhất trong kỳ tốt nghiệp THPT.Đề thi Ngữ Văn gồm 2 phần: ĐỌC HIỂU (3 điểm) và LÀM VĂN (7 điểm) với thời gian làm bài 120 phút. Phần đọc hiểu thường là phần ghi điểm của các thí sinh với câu hỏi không quá khó. Trong đó phần phân tích tác phẩm văn học chiếm tới 5 điểm thường khiến nhiều học sinh phải đau đầu.

Yếu tố cơ bản để làm văn hay

Đi đúng trọng tâm đề bài, không lan man, không lạc đề
Bài viết có mở, thân, kết bài rõ ràng, hợp lýSử dụng từ ngữ chính xác, không sử dụng những từ không phù hợp hoàn cảnh, mục đích bài viết
Đảm bảo ngữ pháp của câu văn, đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ
Chữ viết sạch đẹp, không gạch xóa chi chít

Học sinh nên tập trung nghe giảng, vạch ra các ý chính trong tác phẩm rồi mới học đến các chi tiết phụ. Cách này giúp bạn dễ học, dễ nhớ và không lo bỏ sót ý khi làm bài. Riêng những luận điểm chính đã giúp bạn chiếm được một lượng điểm nhất định trong tổng điểm. Vì thế nếu bạn không thể phân tích sâu thì cũng có được số điểm nhất định.

Thí sinh cũng nên tập viết nhiều, tìm và giải các đề thi của năm trước để không bỡ ngỡ. Để học hiệu quả, thí sinh có thể nhóm các tác phẩm theo từng nhóm như theo đề tài, chủ đề, giai đoạn văn học, tác giả, khuynh hướng (lãng mạn, hiện thực, sử thi,...), trào lưu, thể loại (trữ tình - tự sự - kịch - nghị luận),... để tiện ghi nhớ và phân tích.

Xem và tải tuyển tập những bài văn đạt 9,5+ điểm thi THPTTẠI ĐÂY

Jennie


*

*

*
*
*
*
*
*
*