Nâng cấp gói Pro để trải nghiệm website Vn
Doc.com KHÔNG quảng cáo, và tải file cực nhanh không chờ đợi.

Bạn đang xem: Nghị luận văn học khổ 4 viếng lăng bác


Văn mẫu lớp 9: Phân tích khổ thơ đầu của bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương dưới đây gồm dàn ý và nhiều dạng văn mẫu hay cho các bạn học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các bạn học sinh cùng tham khảo.


Dàn ý Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác mẫu 1

1. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Giới thiệu khái quát nội dung khổ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác”.

2. Thân bài:

a) Câu thơ đầu:

- Đó là lời thông báo về sự việc tác giả sẽ phải rời xa lăng Bác, trở về miền Nam.

- “Thương trào nước mắt”: tình cảm dành cho Bác không thể diễn tả thành lời, bùi ngùi mà rơi những giọt nước mắt.

b) Ba câu tiếp theo:

- Ước nguyện chân thành của tác giả:

+ Làm con chim: để vang lên lời ca yêu Bác mỗi ngày.

+ Làm cây tre: ước muốn được ở bên cạnh, cùng xây dựng, bảo vệ Tổ Quốc với Bác

+ Làm bông hoa: để tỏa hương thơm ngát, tô điểm cho nơi đây.

- Điệp ngữ “muốn làm”: nhấn mạnh khát khao chân thành của nhà thơ.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật.


Dàn ý Phân tích khổ thơ cuối của bài thơ Viếng lăng Bác mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Viễn Phương, bài thơ Viếng lăng Bác và dẫn dắt vào khổ thơ cuối của bài.

Lưu ý: học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của mình.

2. Thân bài

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”: một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa - lời giã biệt nghẹn ngào, sâu lắng. “Trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ.

Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng được ở lại bên cạnh Người, Những ước nguyện ấy thật đáng quý! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ.

Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng.


Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.

→ Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác - Bài tham khảo 1

Sau bao nhiêu cảm xúc của một người con lần đầu ra thăm người cha của mình thì giờ đây đã đến lúc phải rời xa. Cảm xúc ấy của nhà thơ Viễn Phương đã thể hiện qua khổ thơ cuối bài thơ “Viếng lăng Bác” với bao ước muốn thành kính.

Bài thơ được sáng tác năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước được thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành. Tác giả ra thăm miền Bắc vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của tác giả từ niềm Nam ra viếng lăng Bác. Cuộc hành trình ấy đã đến lúc phải ra về với câu thơ đầy xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Là một câu thơ mà cũng là một lời giã biệt của người con khi phải xa cha lần nữa. Lời giã biệt ấy thật nghẹn ngào sâu lắng. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ dành cho Bác cũng như của tất cả mọi người khi phải rời lăng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó là tâm trạng của muôn triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi người ấm áp quá, rộng lớn quá. Nhưng dù muốn hay không thì giây phút ngắn ngủi được gặp Bác cũng vô cùng thiêng liêng. Đã đến lúc dòng người vào lăng viếng Bác phải ra về.


Trong niềm xúc động nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa được một lần gặp Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu trốn này”

Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn làm một đóa hoa tỏa hương thơm thanh cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu giữa mãi giấc ngủ bình yên cho Người. Hình ảnh cây tre quả thật là một hình ảnh đẹp và được khép lại rất khéo ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh khi tác giả nhìn thấy khi vào lăng. Đó cũng là hình ảnh biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Điệp từ “Muốn làm” được nhắc lại ba lần biểu cảm trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ ra từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.

Khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác là tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn ở mãi ở bên lăng Bác không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời là niềm nguyện ước của Viễn Phương muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.

Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác - Bài tham khảo 2

Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời vào năm 1976, đây là thời điểm đất nước hòa bình, hai miền thống nhất, nhà thơ có dịp ra thăm lăng Bác. Bài thơ thể hiện niềm kÍnh trọng và tình yêu thương và tiếc nuối của tác giả cũng như đồng bào miền Nam khi ra thăm Bác. Bài thơ đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc và thành công nhất là Hoàng Hiệp có cùng nhan đề.

Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự thương nhớ và tâm nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và trở về miền Nam để tiếp tục dựng xây, bảo vệ đất nước, bảo vệ miền Nam kiên cường, máu lửa của tổ quốc.


“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác nhà thơ đã không thể nào kìm được lòng mình nữa, tuôn trào nước mắt. Những khổ thơ ở trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt nhưng nhà thơ vẫn cố kìm giữ trong đến khổ thơ cuối thì cảm xúc của nhà thơ đã tuôn theo dòng nước mắt tuôn rơi. Từ ngữ biểu cảm đã bộc lộ được nỗi xúc động trào dâng lên tới đỉnh điểm.

Từ cái nỗi xúc động đó tác giả thể hiện ước nguyện của mình:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Điệp ngữ “muốn làm” khiến cho nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện được khát vọng mãnh liệt của mình. Khát vọng đó được bộc lộ qua những hình ảnh thơ vừa đẹp vừa gợi cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu” tất cả để làm đẹp cho nơi Bác nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.

Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” càng nhấn mạnh thêm cái ước mơ của tác giả được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là khát khao chung của rất nhiều người, bởi vì

“Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,

Ta bỗng lớn ở bên người một chút”

Viễn Phương cũng cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”, cây tre này khiến cho chúng ta nhớ lại hình ảnh “hàng tre” ở đầu bài thơ. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” đã làm nên kết cấu đầu cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu như mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc sẽ là hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại một lần nữa hình ảnh “cây tre” để nhấn mạnh tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời thực hiện lý tưởng của người và đây cũng chính là ước nguyện của cả dân tộc.

Theo bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về chúng ta nhận ra được dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và càng lúc càng phát triển. Nỗi đau cứ được dâng cao và đến khổ cuối thì dâng lên tới đỉnh điểm, nỗi đau ấy cũng chính là tiếng lòng của tất cả người dân Việt Nam.


Tác giả chưa bao giờ có ước muốn sẽ làm điều gì đó cao cả, kỳ vĩ mà chỉ là “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” mà thôi, đó là những hình ảnh vô cùng nhỏ bé, bình dị nhưng đó là tất cả những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác.

Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường thì đến khổ thơ cuối này hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là hình ảnh nghệ thuật nhân hóa, đó là tấm lòng thành kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra đó là tình cảm của toàn dân tộc kính dâng lên người.

Nếu như ở mấy khổ trên địa từ nhân xưng, chủ thể nói tới là tác giả, là “con” thì ở khổ cuối chủ thể đó bị ẩn đi, không phải tác giả không nhắc tới nữa mà lúc này chủ thể là tất cả người con Việt Nam chứ không riêng gì tác giả nữa. Khổ cuối khép lại đó là cảm giác chia tay, xa cách về không gian địa lý, thời gian nhưng nó lại gần gũi trong ý chí và tình cảm, lòng trung hiếu

Bài thơ “viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi được vào viếng lăng Bác. Bài thơ có giọng điệu trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm, ngôn ngữ giản dị mà cô đúc. Bài thơ chính là tâm tình, là lời tri ân, sự biết ơn của con dân gửi tới vị cha già kính yêu của dân tộc, cả đời gắn bó, sát cánh, hy sinh cho sự nghiệp của cả dân tộc.

Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác - Bài tham khảo 4

Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương - một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng lệ nơi khóe mắt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ một chữ "thương" quen thuộc gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vô cùng.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.

Cả bài thơ là tiếng lòng của người con ra thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được kết tinh trong khổ thơ cuối. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

Xem thêm: Giáo Án Điện Tử Bàn Luận Về Phép Học (Nguyễn Thiếp), Phân Tích Bàn Luận Về Phép Học (Dàn Ý, 30 Mẫu)

Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn nhất - Bài tham khảo 5

Khổ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên lăng Bác:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Hình ảnh cây tre lặp lại tạo ấn tượng đậm nét và làm cho dòng cảm xúc được trọn vẹn. Cậy tre khách thể đã hòa nhập cùng cây tre chủ thể. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn đối với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Bác. Các điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh thơ đứng sau nó tạo một nhạc thơ dồn dập, tha thiết diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ tưởng khép lại trong sự xa cách của không gian nhưng lại tạo được sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi vào viếng Bác, nhất là những người con miền Nam vốn xa cách về không gian, của cả những ai chưa được đến lăng Bác nhưng lòng vẫn thành tâm hướng về Người.

Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn nhất - Bài tham khảo 6

Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi niềm xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương - một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình miêu tả khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, khi xếp hàng và khi đứng trước di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình ấy, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Dòng thơ đầu tiên cất lên bỗng trào dâng mãnh liệt cảm xúc nghẹn ngào, như rưng rưng hàng lệ nơi khóe mắt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ một chữ "thương" quen thuộc gắn với câu nói của người miền Nam mà như gói trọn biết bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ cất lên mà như nghẹn lại, xót xa đến vô cùng.

Tiếc nuối có, thương nhớ có, bởi vậy mà nhân vật trữ tình giã biệt mà vẫn khắc khoải bịn rịn, bày tỏ ước nguyện cá nhân:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ "muốn làm" được nhắc đi nhắc lại đến ba lần cùng nhịp thơ dồn dập thể hiện khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn làm con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật đời thường giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre gần gũi ẩn dụ cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được nhấn mạnh với kết cấu đầu cuối tương ứng như một lời thề sắt son của nhà thơ nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung nguyện đi theo con đường của Bác. Mai trở về miền Nam nhưng tấm lòng chân thành đã được gửi lại trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ khuyết chủ ngữ ấy như là lời thay mặt cho triệu triệu đồng bào Việt Nam bày tỏ cảm xúc thành kính, tha thiết tới lãnh tụ.

Cả bài thơ là tiếng lòng của người con ra thăm lăng Bác, đặc biệt cảm xúc ấy được kết tinh trong khổ thơ cuối. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác sẽ còn sống mãi trong trái tim của Viễn Phương nói riêng, nhân dân Việt Nam ta nói chung. Ước nguyện cao đẹp được hóa thân để được bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chất chứa trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.

Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn nhất - Bài tham khảo 7

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ

Những câu thơ của nhà thơ Bảo Định Giang là những nét vẽ tài hoa về nhân cách phẩm chất đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Dân tộc Việt Nam mãi mãi tự hào vì có một vị cha già kính yêu cả cuộc đời đã hiến dâng cho non sông đất nước. Tri ân người rất nhiều văn nghệ sĩ đã có những vần thơ đẹp ca ngợi Bác. Trong đó bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương chính là tấm lòng thầm kính ngưỡng vọng là nén tâm hương mà nhà thơ ngưỡng vọng dâng lên Bác kính yêu. Bài thơ kết thúc với dòng cảm xúc:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương sáng tác trong dịp tác giả đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ. Bài thơ thể hiện niềm xúc động chân thành, lòng yêu kính, biết ơn sâu sắc và nỗi niềm thương nhớ Bác Hồ của nhà thơ khi được đến viếng lăng Bác. Đến khổ cuối của bài thơ Viễn Phương đã bộc lộc niềm lưu luyến tiếc thương khi tạm biệt Bác trở về miền Nam.

Thương là xót xa vì nỗi đau mất mát đi người cha già kính yêu, nỗi đau ấy trào dâng thành nước mắt, mà cả dân tộc Việt Nam không kiềm lại được. Nỗi đau niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam đối với Bác làm cảm động cả tấm lòng trời đất khi:

Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa

Trong phút giây xúc động thiêng liêng, đứng trước sự vĩ đại sự hi sinh, lòng tận tụy của Người khiến nhà thơ xúc động tự nguyện muốn dâng hiến cuộc đời mình:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Chân bước đi mà lòng còn ngoảnh lại, lưu luyến không muốn rời, sức mạnh giá trị đạo đức Hồ Chí Minh níu kéo lòng người ở lại. Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi lặp lại đã diễn tả tâm trạng vừa lưu luyến nhưng cũng đầy ước nguyện. Nhà thơ nguyện ước làm con chim hót góp tiếng hát mang niềm vui đến cho Bác mỗi ngày, làm đóa hoa tỏa hương sâu sắc tô điểm cho cuộc sống đặc biệt làm “cây tre trung hiếu” chốn này, đứng cạnh mãi bên người, canh từng giấc ngủ cho người. Cũng là lời hứa nguyện sống xứng đáng với lời dạy của Người. Viễn Phương đã nói lên niềm mong ước của mình cũng như ước nguyện của tất cả mọi người dân Việt Nam muốn được gần bên Bác và lớn lên một chút:

Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn lên ở bên Người một chút.

............................

Trên đây Vn
Doc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 9. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 9, đề thi học kì 2 lớp 9 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

1. Phân Tích Khổ Thơ Cuối Bài 'Viếng Lăng Bác' Số 12. Phân tích khổ thơ cuối bài thơ 'Viếng lăng Bác' số 33. Phân tích khổ thơ cuối bài thơ 'Viếng lăng Bác' số 2 - Một Cuộc Chia Ly Thiêng Liêng4. Tận Hưởng Khúc Hát Cuối Cùng - Sâu Sắc Trải Nghiệm Bài Thơ 'Viếng Lăng Bác' Số 55. Trải Nghiệm Sâu Sắc Khúc Cuối - Phân Tích Bài Thơ 'Viếng Lăng Bác' Số 46. Phân tích đoạn thơ cuối bài 'Viếng lăng Bác' thứ 6
Bác Hồ, vị cha già kính yêu của dân tộc luôn là niềm tự hào của triệu triệu người dân Việt Nam. Dù đã đi xa, thế nhưng Người vẫn luôn sống mãi trong trái tim nhân dân, trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho văn chương. Viết về Bác, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương nổi bật với xúc cảm và sự trân trọng của người thi sĩ đối với vị cha già. Phân tích khổ cuối bài thơ Viếng lăng Bác, ta sẽ thấy được ước mong nhỏ bé của tác giả đối với Hồ Chủ tịch.

Nhà thơ Viễn Phương (1928 – 2005) tên thật là Phan Thanh Viễn, sinh ra và lớn lên tại An Giang. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Thời chống Mỹ cứu nước, ông không chỉ là một người chiến sĩ mà còn là một cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng khu vực miền Nam. Năm 1952, khi Nam Bộ tổ chức giải thưởng tổng kết văn học nghệ thuật, trường ca “Chiến thắng Hòa Bình” của nhà thơ đã đạt giải nhì. Thời gian sau, Chi hội văn nghệ Nam Bộ được thành lập, Viễn Phương đã được bầu vào Ban chấp hành. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như: “Như mây mùa xuân, “Anh hùng mìn gạt”, “Lòng mẹ”,… Sinh ra và lớn lên tại miền Tây sông nước, thơ Viễn Phương cũng in đậm phong cách và tâm hồn của nơi đây. Các tác phẩm của ông rất giàu cảm xúc nhưng không bi lụy. Thơ ông nền nã, thì thầm, bâng khuâng, như là lời tâm tình, thủ thỉ với bạn đọc. Vì vậy, mỗi tác phẩm của ông đều được độc giả yêu thích và trân trọng.

Bài thơ “Viếng Lăng Bác” được tác giả Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, khi đất nước đã giành thắng lợi vẻ vang trước đế quốc Mỹ.. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, lăng Bác vừa được hoàn thành, ông được vinh dự cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thủ đô Hà Nội viếng lăng Bác. Tác phẩm được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân”, xuất bản năm 1978.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” là nỗi xúc động, yêu mến khôn nguôi của Viễn Phương đối với vị cha già dân tộc. Đó là những cảm xúc mãnh liệt khi đứng trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng; trước đoàn người vào lăng viếng Bác; khi vào lăng, nhìn thấy di hài của Bác. Và sau cùng, khổ thơ cuối là những cảm xúc lắng đọng trước lúc ra về. Đây cũng là khổ thơ thể hiện mong ước nhỏ bé, được ở bên Bác, không nỡ rời xa của nhà thơ:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Trước hết, khổ thơ thể hiện niềm thương cảm lớn lao của tác giả khi phải chia xa Bác:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Ngôn ngữ Việt phong phú vô cùng. Từ “thương” có lẽ là từ đặc biệt mà không một ngôn ngữ nào có thể cắt nghĩa, lí giải được. Chỉ một tiếng tiếng “thương” thôi, tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác đã được bày tỏ một cách vô cùng trọn vẹn. Đó là niềm yêu kính, là quý trọng cả cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Hồ Chủ tịch. Người đã dành hết cả đời mình cho dân, cho nước, cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Là sự hi sinh không tiếc mình của người cha già lặng lẽ, nhiều trăn trở:

“Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch chẳng vàng son”

Đó còn là sự xót xa, đau đớn của tác giả nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Giờ đây, chúng ta đã mãi mãi mất đi người cha già kính yêu. Nỗi đau ấy, sau những kìm nén trong suốt cuộc hành trình về với Bác, giờ đây khi phải chia xa đã “trào nước mắt”. Mọi xót thương dồn nén lại, tuôn trào. Và không chỉ con người mới xót thương, dường như thiên nhiên đất trời cũng đã động lòng:

“Suốt mấy đêm dài đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa”

(Tố Hữu)

Chỉ với một câu thơ 8 chữ, tình cảm của nhà thơ Viễn Phương đã được bộc lộ rất chân thành. Đó là niềm tiếc nuối, bâng khuâng cùng những mong mỏi đau đáu của tác giả – cũng chính là nguyện ước của triệu triệu người dân Việt Nam với Bác. Có hàng nghìn bài thơ viết về Bác, thế nhưng Viễn Phương với áng thơ dịu nhẹ của mình vẫn giữ vị trí không thể thay thế, làm đẹp hơn kho tàng văn chương về Bác.


*
Hình minh họa (Nguồn từ internet)
*
Hình minh họa (Nguồn online)

Bài thơ Viếng lăng Bác chân thực hóa nỗi xúc động, lòng biết ơn sâu sắc của Viễn Phương - một nhà thơ miền Nam lần đầu ra Hà Nội và hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác. Bài thơ dựa trên cấu trúc của một hành trình, mô tả khoảnh khắc tác giả đứng trước lăng, xếp hàng, và đối diện với di hài của Bác. Khổ thơ kết thúc là dấu lặng chấm dứt hành trình, lộ rõ tâm trạng lưu luyến khi Viễn Phương nói lời tạm biệt Bác trước khi quay về miền Nam:

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Dòng thơ đầu tiên bất ngờ đánh thức cảm xúc mãnh liệt, như làm rơi lệ nơi khóe mắt: "Mai về miền Nam thương trào nước mắt". Chữ "thương" đặc biệt, là từ quen thuộc liên quan đến tình cảm của người miền Nam, nó như gói gọn bao thương yêu, xót xa và kính trọng. Câu thơ này là như một đợt sóng lên, lại như rơi xuống, thể hiện sự đau đớn, tiếc nuối không lẫn vào đâu được. Tiếc thương, nhớ nhung, điều này khiến nhân vật đậm nét, thể hiện mong ước cá nhân:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.

Điệp ngữ "muốn làm" lặp lại ba lần với nhịp thơ dồn dập, thể hiện sự khao khát chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn trở thành con chim, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những hình ảnh giản dị, gắn liền với thiên nhiên gần gũi. Muốn làm con chim để hát vang vui vẻ xung quanh lăng Bác, muốn làm đóa hoa để tỏa hương làm đẹp cuộc sống, và đặc biệt muốn làm cây tre gần gũi là biểu tượng của sự trung hiếu, sự bền vững của người Việt. Hình ảnh cây tre đã được nhấn mạnh ở đầu bài thơ, với kết cấu đầu cuối tương ứng, như là lời thề sắt son của nhà thơ và cũng là lời thề của nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà Bác đã chỉ dẫn. Dù trở về miền Nam, nhưng trái tim chân thành của họ đã được gửi về nơi lăng Bác. Ba câu thơ đẹp như là lời đại diện cho triệu triệu tâm hồn người Việt bày tỏ lòng kính trọng và tha thiết tới lãnh tụ.

Cả bài thơ là tiếng lòng của một người con khi đến thăm lăng Bác, đặc biệt được thể hiện rõ trong khổ thơ cuối cùng. Dù Bác đã rời đi, nhưng Bác sẽ mãi mãi sống trong trái tim của Viễn Phương và nhân dân Việt Nam. Ước nguyện cao quý được thể hiện, trải đều tấm lòng quý trọng của nhân dân.


*
Hình minh họa (Nguồn từ internet)
*
Hình minh họa (Nguồn trực tuyến)

Sau những cảm xúc sâu sắc khi đặt chân lên lãnh thổ miền Bắc và đến lăng Bác, giờ đây là lúc phải nói lời chia tay. Nhà thơ Viễn Phương gửi đến Bác Hồ những tâm tư trong khổ thơ cuối cùng của bài “Viếng lăng Bác” với những điều nguyện cầu và lòng thành kính.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1976, ngay sau cuộc chiến tranh chống Mỹ kết thúc và việc thống nhất đất nước, lăng Bác Hồ cũng vừa được khánh thành. Nhà thơ đã có chuyến hành trình về miền Bắc để viếng thăm lăng Bác. Bài thơ là biểu tượng của sự xúc động và lòng biết ơn, cũng như niềm tự hào kết hợp với nỗi đau của người con Nam khi đối diện với lăng Bác. Cuộc hành trình đã điểm hóa trong những dòng thơ cuối cùng:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Một câu thơ đầy ý nghĩa, là lời tạm biệt của người con phải rời xa cha lần nữa. Lời nói chia tay ấy thực sự làm rơi nước mắt. Câu thơ giản dị nhưng truyền đạt được tâm tư của nhà thơ đối với Bác, cũng như tâm tư của mọi người khi phải rời xa lăng. Từ “trào” thể hiện sự mãnh liệt, lòng nhớ thương, và đau buồn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó chính là tâm tư của hàng triệu trái tim nhỏ bé, chung một nỗi đau như nhau với tác giả. Dù gần Bác chỉ trong phút chốc, nhưng không ai muốn xa lìa Bác, vì Bác là người ấm áp, vĩ đại. Nhưng dù muốn hay không, dòng người đến lăng Bác phải rời về.

Trong xúc động đó là những điều nguyện cầu thành kính của Viễn Phương, cũng như ước nguyện chung của những người đã và chưa từng gặp Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Đây là những điều nguyện đáng quý của nhà thơ! Nguyện làm con chim hót để đưa âm thanh thiên nhiên, đẹp và trong lành đến nơi Bác nằm yên. Tác giả muốn trở thành một đóa hoa thơm hương cao. Muốn làm một cây tre trung hiếu bảo vệ giấc ngủ an lành cho Bác. Hình ảnh của cây tre thực sự là một hình ảnh đẹp và được kết thúc một cách tinh tế ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ đã mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là hình ảnh tác giả nhìn thấy khi bước vào lăng. Đó cũng là hình ảnh đặc trưng của người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Nhưng cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng hình ảnh cây tre trung hiếu gác canh cho giấc ngủ yên bình của Bác. Hình ảnh của cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Từ điều nguyện “Muốn làm” được nhắc lại ba lần để thể hiện một cách trực tiếp và gián tiếp sự lưu luyến, ước muốn và lòng tình nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được làm nổi bật từ tận đáy tâm hồn của nhà thơ Viễn Phương.

Khổ thơ cuối cùng của bài Viếng lăng Bác là biểu hiện của sự lưu luyến của nhà thơ, mong muốn ở lại bên lăng Bác mãi mãi, không muốn rời xa nơi Bác nằm. Đồng thời là lời nguyện ước của Viễn Phương muốn sống một cuộc đời đẹp để trở thành những đóa hoa thơm hương dâng lên Bác.


*
Hình minh họa (Nguồn từ internet)
*
Hình minh họa (Nguồn từ internet)

Vào năm 1976, thời điểm mà đất nước đang hòa bình, hai miền thống nhất, nhà thơ đã có cơ hội viếng thăm lăng Bác. Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện tình cảm kính trọng, yêu thương, và tiếc nuối của tác giả cũng như của người dân miền Nam khi họ bước chân vào lăng Bác. Bài thơ đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều nhạc sĩ, và thành công nhất là bản phổ nhạc của Hoàng Hiệp cùng tên.

Khổ thơ cuối cùng đưa chúng ta vào thế giới của sự nhớ nhung và nguyện ước của nhà thơ sau khi rời lăng Bác, trở về miền Nam để tiếp tục xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho miền Nam kiên cường và tràn đầy tinh thần yêu nước.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác, nhà thơ không thể kìm lại cảm xúc nữa, nước mắt tuôn trào. Những dòng thơ truyền đạt cảm xúc mãnh liệt, và đặc biệt là khổ thơ cuối cùng khiến tâm hồn nhà thơ tràn ngập nước mắt. Từ lựa chọn từ ngữ biểu cảm, tác giả làm cho nỗi xúc động dâng cao lên đến đỉnh điểm. Từ nỗi đau đó, tác giả thể hiện lên những nguyện ước:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”

Việc sử dụng từ ngữ “muốn làm” tạo nên nhịp điệu nhanh, dồn dập, phản ánh khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. Khát vọng đó được thể hiện qua hình ảnh tuyệt vời của “con chim hót”, “đoá hoa toả hương”, và “cây tre trung hiếu”, tất cả đều là những điều tinh tế nhất để trang trí nơi Bác nằm yên. Tác giả muốn dâng lên Bác những điều tinh tế nhất của bản thân để Bác có giấc ngủ yên bình, hạnh phúc.

Những từ như “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” thêm sâu thêm nồng thêm ý nghĩa cho những nguyện ước của tác giả, thể hiện mong muốn ở bên Bác mãi mãi, không muốn rời xa. Điều này không chỉ là mong muốn của nhà thơ, mà còn là mong muốn chung của cả cộng đồng:

“Ta bên người, người tỏa sáng bên ta,

Ta bỗng lớn ở bên người một chút”

Viễn Phương cảm nhận được điều đó khi được ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ cuối cùng là hình ảnh của “cây tre trung hiếu”, là biểu tượng của sự trung thành, của người lính kiên trung, hàng ngày đêm đứng gác. Hình ảnh của cây tre tạo nên sự kết nối giữa đầu và cuối bài thơ một cách hoàn hảo. “Muốn làm” được lặp lại ba lần, thể hiện sự lưu luyến, mong muốn và lòng tình nguyện chân thành của tác giả. Nguyện ước đó phản ánh từ đáy tâm hồn của nhà thơ Viễn Phương.

Bài thơ “Viếng lăng Bác” không chỉ là sự diễn đạt lòng thành kính và xúc động của nhà thơ, mà còn là lời tri ân, sự biết ơn của cả một dân tộc gửi đến cha già kính yêu, người đã hy sinh cả cuộc đời để xây dựng cho Việt Nam ngày hôm nay.


*
*
Hình minh họa (Nguồn từ internet)

Tháp Mười tinh xảo như bông sen

Vietnam đẹp nhất vì có tên Bác Hồ

Bảo Định Giang với những vần thơ tuyệt vời, khắc họa hình ảnh đức tính nhân cách xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dân tộc Việt Nam luôn tự hào về cha già kính yêu, người đã hiến dâng tất cả cho đất nước. Nhiều văn nghệ sĩ đã sáng tác những bài thơ tuyệt vời để tưởng nhớ Bác. Trong số đó, bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương là biểu tượng của tình cảm kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc, và niềm thương nhớ Bác Hồ. Khúc cuối của bài thơ đong đầy cảm xúc:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Bài thơ "Viếng lăng Bác" được sáng tác khi tác giả đến thăm nơi Bác nghỉ cuối cùng. Tác phẩm thể hiện niềm xúc động chân thành và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ khi đến viếng lăng Bác. Trong khúc cuối, Viễn Phương bộc lộ tâm trạng lưu luyến và tiếc thương khi phải chia tay Bác trước khi quay về miền Nam.

Nỗi thương đau vì sự mất mát của người cha già kính yêu hiện hóa thành những giọt nước mắt, là nỗi đau mà cả dân tộc không thể kiềm nén. Niềm thương tiếc của nhân dân Việt Nam dành cho Bác được thể hiện qua những dòng thơ:

Đêm dài mấy đêm đau lòng tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời rơi mưa

Trong những phút giây cảm động và thiêng liêng, đứng trước vị vĩ đại, trí tuệ, và lòng hi sinh của Người, nhà thơ không kiểm soát được cảm xúc:

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này

Bước chân đi nhưng lòng không chịu rời đi, niềm lưu luyến không muốn xa cách, giá trị đạo đức của Hồ Chí Minh vẫn nắm giữ con tim người lại. "Muốn làm" lặp lại trong thơ diễn đạt lưu luyến mà đầy ước nguyện. Tác giả mong ước trở thành con chim hót, góp tiếng hát vui vẻ cho Bác mỗi ngày, làm đóa hoa tỏa hương, tô điểm cho cuộc sống, đặc biệt "cây tre trung hiếu" ở chốn này, đứng mãi bên cạnh, giữ mãi giấc ngủ của Người. Đây cũng là lời hứa sống xứng đáng với tâm nguyện của Người. Viễn Phương đã truyền đạt mong ước của mình, cũng như mong ước của cả dân tộc Việt Nam muốn ở gần Bác và trưởng thành:

Đứng bên Người, Người tỏa sáng trong ta

Ta bỗng lớn lên ở bên Người một chút.


*
*

Trong khổ thơ đầu tiên, nhà thơ tự giới thiệu về mình như là người con miền Nam đến thăm Bác. Tuy nhiên, ở khổ thứ 4 của bài thơ "Viếng lăng Bác", tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi rời xa lăng Bác trở nên rõ nét hơn. Nghĩ đến ngày mai khi trở về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không được kìm nén, mà được bộc lộ ra ngoài. Thơ thể hiện sự thiết tha và ước nguyện muốn mãi ở bên Bác. Đây là lời hứa thủy chung, ước nguyện của nhà thơ với Bác, đồng thời là lời đại diện cho ý chí cao đẹp và con đường cách mạng Bác đã mở ra:

"Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này… ”

Khổ cuối cảm nhận những nỗi đau và mất mát mà cả dân tộc phải đối mặt khi Bác qua đời (1969). Chỉ còn lại những giọt nước mắt của người con viếng lễ muộn: Mai về miền Nam thương trào nước mắt. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót trào rơi nước mắt. Không phải nhẹ nhàng, mà là trào, một cảm xúc chân thành và mạnh mẽ.

Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời chia tay. Lời diễn đạt đơn giản nhưng truyền đạt tình cảm sâu sắc, thiết tha. Từ “trào” thể hiện cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, và sự bất lực trước việc phải xa lạnh lẽo nơi Bác nghỉ. Điều này không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của hàng triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ là trong khoảnh khắc, nhưng không ai muốn xa Bác bởi Người quá ấm áp, quá rộng lớn.

Nhà thơ mong muốn trở thành con chim, đóa hoa, cây tre, nhưng tất cả đều ở xung quanh lăng, bảo vệ lăng. Con chim hót, đóa hoa thơm, cây tre trung hiếu canh giữ giấc ngủ yên bình. Điệp ngữ “muốn làm” kết hợp với hình ảnh thiên nhiên “con chim”, ”đóa hoa”, ”cây tre” thể hiện ước muốn sâu sắc, mãnh liệt của tác giả. Đây là ước muốn thể hiện lòng thành kính, thiêng liêng của nhà thơ, một người con Nam Bộ, nhưng cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam dành cho Bác.

Đặc biệt, ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để trở thành một phần của hàng tre bát ngát, canh gác giấc ngủ an lành của Bác. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng, một lần nữa nhấn mạnh đồng cảm và sự hiểu biết đối với giá trị của Bác. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối cùng như một điểm nhấn, làm cho dòng cảm xúc trở nên sâu sắc và trọn vẹn.

“Cây tre trung hiếu” là biểu tượng của lòng kính yêu, sự trung thành không biên giới với Bác, hứa rằng sẽ mãi mãi theo đuổi con đường cách mạng mà Người đã chỉ dẫn. Đây là lời hứa thủy chung không chỉ của nhà thơ mà còn của miền Nam, của tất cả chúng ta đối với Bác.

Khổ thứ 4 của bài thơ "Viếng lăng Bác" thể hiện nỗi riêng biệt nhưng chứa đựng tình cảm phổ quát. Tác giả sử dụng một loạt câu thơ không có chủ ngữ cụ thể, nhấn mạnh ba lần sự mong ước muốn làm điều gì đó như một thách thức không ngừng. Điều này phản ánh mong muốn của những người đã từng đến thăm lăng, cũng như những người chưa bao giờ có cơ hội đó, nhưng tấm lòng luôn hướng về Bác - người kính yêu.